Học vấn Nguyễn_An_Ninh

Nguyễn An Ninh theo học ở trường Taberd, Collège Mỹ Tho rồi Trường Chasseloup Laubat (nay là trường THPT Lê Quý Đôn) ở Sài Gòn. Năm 1915, mới 15 tuổi, ông đã được nhận làm biên tập cho tờ Courrier saigonnais. Năm sau, nhờ tốt nghiệp trung học với bằng ưu nên ông ra Hà Nội học Cao đẳng Y Dược và được miễn chuẩn bằng Tú Tài.

Nhưng học được nửa năm, Nguyễn An Ninh quyết định chuyển sang học luật tại Trường Cao đẳng Pháp chính thuộc Đại học Đông Dương. Năm 1918, ông sang Paris, Pháp, tiếp tục học đại học ngành luật tại Đại học Sorbonne. Hai năm sau, ông đã hoàn thành chương trình học tập và được cấp bằng cử nhân Luật hạng xuất sắc.

Sang Pháp lần nhất

Năm 1918, tại Pháp, năm đầu Nguyễn An Ninh phải chuẩn bị hồ sơ vào đại học. Ông nhanh chóng lấy bằng Tú tài trong vòng 3 tháng rồi thi vào khoa Luật trường Đại học Sorbonne (cứ 3 tháng ông đăng ký thi chương trình của một năm) nên ông chỉ học trong một năm đã hoàn thành chương trình bốn năm và lấy bằng Cử nhân Luật, gây ngạc nhiên và thán phục trong giới trí thức ở Pháp về trí thông minh "lỗi lạc" đặc biệt hiếm thấy.

Trong thời gian sống tại Paris, ông thích lui tới Montparnasse  "Tổng hành dinh" của nhiều văn sĩ nổi tiếng và nhiều trào lưu nghệ thuật tiền phong đã ra đời tại đây, hoặc lui tới khu Saint Germain des Prés, nơi tụ tập, gặp gỡ của nhiều triết gia và các nhà văn hiện sinh. Ông cũng thường có mặt tại thư viện, đọc những sách mà lịch sử Pháp gọi là " Triết học ánh sáng" của các triết gia như: Voltaire, J. J. Rousseau, Montesquieu, Diderot,... Ngoài ra ông còn thích nghiên cứu về chủ nghĩa Gandhi, về Phật giáo và đặc biệt về triết học Mác – Lênin. Ông cũng đi tham quan học tập và tiếp cận các danh nhân ở Đức, Ý, Thụy Sĩ, Áo, Hà Lan, Bỉ. Ông có được kiến thức về nhiều mặt: Hán Học, Tây học, Luật học, Triết học, Văn hóa và Khoa học.

Ông không có ý định dừng bước ở bằng Cử nhân mà còn muốn đi xa hơn nữa: lấy bằng Tiến sĩ. Nhưng ý muốn ấy đã phải nhường bước cho một lý tưởng mà ông đã sớm ôm ấp theo truyền thống gia đình ngay từ buổi thiếu niên tại Chiêu Nam Lầu: "đấu tranh" cho Việt Nam.

Năm 1920, trên đất Pháp ông bắt đầu tham gia hoạt động chính trị khi vừa tròn 20 tuổi. Ông thường làm phiên dịch và đưa Phan Châu Trinh đến Bộ Thuộc địa gặp Bộ trưởng Albert Sarraut đòi ân xá chính trị phạm Việt Nam, mở thêm trường học, cho thương gia Việt Nam liên hệ thẳng với nước ngoài. Ông thường giúp Nguyễn Ái Quốc luyện tiếng Pháp, cùng đến thư viện để đọc và đến các câu lạc bộ để nghe.

Năm 1921, ông gia nhập Hội Liên hiệp Thuộc địa, tham gia tích cực cơ quan ngôn luận của Hội là báo Le Paria cùng với Nguyễn Ái Quốc, tham dự và phát biểu tại những cuộc diễn thuyết do Hội tổ chức và được quần chúng bắt đầu chú ý.

Ngoài việc biên tập cho báo Le Paria, ông còn viết cho các báo tiến bộ như Le Libertaire, có chân trong nhóm sáng lập tạp chí Europe, một tờ báo quy tụ những cây bút nổi tiếng của Pháp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Nhóm Ngũ Long gồm Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh được Việt kiều ở Pháp mến mộ, khâm phục, khiến Bộ Thuộc địa Pháp phải yêu cầu Bộ Nội vụ cùng phối hợp hành động để đối phó những nhà cách mạng này.

Diễn thuyết lần đầu

Tháng 10 năm 1922 Nguyễn An Ninh thu xếp về nước thăm dò phong trào quần chúng bằng cuộc diễn thuyết đầu tiên đêm 25-01-1923 với đề tài "Nền Văn hóa Việt Nam" được quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt.

Sang Pháp lần hai

Tháng 02 năm 1923, ông trở sang Pháp để bộ ba Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền và ông cùng thống nhất hành động.

Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Nga để học cách tổ chức và lãnh đạo cách mạng.

Tháng 8 năm 1923, Nguyễn An Ninh trở về xây dựng phong trào trong nước chờ Nguyễn Ái Quốc trở về.

Nguyễn Thế Truyền ở lại tiếp tục công việc và phát triển phong trào tại Pháp, tranh thủ sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp và người Việt tại Pháp.

Diễn thuyết lần thứ hai

Về nước, Nguyễn An Ninh lại diễn thuyết lần thứ hai vào đêm 15 tháng 10 năm 1923 với đề tài "Lý tưởng thanh niên An Nam". Trong hai cuộc thuyết trình này, lời lẽ của ông được cho là tiếng chuông khơi động sự "thức tỉnh đồng bào" về sự cần thiết nâng cao dân trí, xây dựng một nền văn hóa dân tộc. Ông cho rằng: "Dân tộc nào để cho một nền văn hóa ngoại bang ngự trị thì không thể có độc lập thực sự. Văn hóa là tâm hồn của dân tộc[4]" do đó "một dân tộc muốn sống, muốn độc lập, muốn rạng danh trong nhân loại, cần phải có một nền văn hoá riêng của mình[4]". Ông khẳng định Việt Nam cần có một tầng lớp tinh hoa nắm vững tri thức để có thể dẫn dắt dân tộc nhằm mưu cầu một nền độc lập chân chính về mặt văn hóa, tư tưởng cũng như kinh tế, chính trị. Tầng lớp tinh hoa đó có thể sáng tạo ra những tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, có thể đưa ra những chính sách phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, có thể hiện đại hóa Việt Nam và đưa Việt Nam hội nhập vào thế giới văn minh. Nếu không có một tầng lớp tinh hoa như vậy thì những hoạt động chính trị chỉ làm phung phí sức lực của dân tộc mà không đem lại một nền độc lập chân chính, không thể phát triển Việt Nam.

Ông đả kích thứ mà ông gọi là "vai trò khai hóa" của người Pháp tại Việt Nam, cho đó là một trò bịp bợm, một chiêu bài nhằm che giấu "chính sách bóc lột" thực dân, kêu gọi thanh niên đừng ỷ lại vào đó và "phải dấn thân vào cuộc sống đấu tranh…". Và ông đã kết luận "Hãy tôn sùng những ai đã dùng tài năng hay thiên phú của mình mà tự nâng vị trí của dân tộc ta (chỉ người Việt) trên thế giới và những ai đã đóng góp vào việc cải thiện điều kiện sống cho dân tộc chúng ta[4]".

Tiếng vang qua hai bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh đã tác động mạnh trong dư luận thanh niên và trí thức Sài Gòn, đã làm đau đầu chính quyền thống trị. Thống đốc Nam Kỳ lúc đó là Cognacq phải gọi ông lên dinh để mong bịt miệng. Trước tiên, Cognacq hứa hẹn sẽ bổ nhiệm Nguyễn An Ninh vào một chức vụ cao, nhưng sau đó thấy không thể thay đổi ý nghĩ của Nguyễn An Ninh, ông ra lệnh cấm Nguyễn An Ninh diễn thuyết hay tụ họp bất cứ nơi đâu.

Báo La Cloche Fêlée và sứ mệnh lịch sử

Không thể tiếp tục đấu tranh bằng lời nói, ông chuyển sang đấu tranh bằng ngòi bút. Ông đã lợi dụng Đạo luật ngày 19 tháng 7 năm 1881 cho phép báo chí viết bằng tiếng Pháp khỏi phải xin phép trước khi báo phát hành. Đạo luật này cho phép dùng "gậy ông đập lưng ông" nên ông cho ra đời báo La Cloche Fêlée (Chuông rè) bằng Pháp văn với người quản lý Pháp lai tên Eugène Dejean de la Bâtie. Ông phải lo chạy tiền ra báo, Nguyễn An Khương bán ruộng cho con có tiền và ngày 10 tháng 12 năm 1923, La Cloche Fêlée ra mắt số đầu tiên. Báo tự xưng là cơ quan ngôn luận, tuyên truyền chuẩn bị cho tương lai với tinh thần: Tự do, Bình đẳng, Bác ái nhằm xây dựng Việt Nam thành một nước Pháp thứ hai tại Châu Á. Nhưng lập trường, quan điểm ấy dù bề ngoài ôn hòa và thiện chí, thực chất là để "chọc" vào điểm yếu của chế độ thực dân, được Nguyễn An Ninh cho là một chế độ hoàn toàn đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản của cuộc cách mạng Pháp 1789. Do đó vì không cấm đoán được, Cognacq và nhà cầm quyền Pháp chủ trương đánh phá La Cloche Fêlée. Bất cứ ai cầm tờ báo trên tay cũng bị mật thám theo dõi, bị đuổi học, đuổi việc. Chủ nhà in, thợ sắp chữ liên tục bị hăm dọa. Báo phải đổi nhà in, chủ báo (Nguyễn An Ninh) vừa là ký giả, vừa phụ xếp chữ với thợ, sửa bản vỗ, làm long tong. Khi báo in xong, thì tự mình ôm từng chồng báo đi rao bán khắp phố phường, vì không một đại lý nào dám phát hành La Cloche Fêlée khi có sự răn đe của mật thám. Sau khi in xong đích thân Nguyễn An Ninh mặc áo dài trắng, đi xe đạp, tay ôm sấp báo đứng bán ở góc đường Tự Do - Gia Long hay phía trước nhà hàng Yeng Yeng. Làm báo như thế nhưng Nguyễn An Ninh vẫn làm, vẫn công kích chế độ thuộc địa và ông đã xác định trên báo: "Lưỡi gươm đe dọa vẫn làm chúng tôi dửng dưng. Chúng tôi đã hy sinh tất cả trong quá khứ, chúng tôi sẵn sàng hy sinh tất cả trong tương lai…"[5].

Đến số 19 ra ngày 14 tháng 7 năm 1924 thì báo tạm ngưng vì lý do sức khỏe của ông và theo lời khuyên của Bâtie, ông cần nghỉ ngơi một thời gian. Tuy báo chỉ có mặt trên diễn đàn ngôn luận thời gian ngắn và số lượng phát hành có bị hạn chế (viết bằng Pháp văn và bị đe dọa) nhưng La Cloche Fêlée đã tạo được một vị trí trong lịch sử báo chí Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh "giành độc lập – tự do". Dưới áp lực của chính quyền, La Cloche Fêlée được cho là đã "gióng lên tiếng chuông "thức tỉnh đồng bào" và lột trần bản chất của chế độ thuộc địa". Đối với Nguyễn An Ninh thì La Cloche Fêlée được xem là một thành tựu quan trọng trong bước đầu của sự nghiệp "vì đại nghĩa", theo ông. Tờ báo được cho là rõ nét "Con người Trí tuệ và Tâm tình" của ông trên giấy trắng mực đen. Ông được người Việt ở Sài Gòn – Chợ Lớn, ở khắp Nam Kỳ và trên cả nước bắt đầu tin tưởng, ngưỡng mộ và được xem là thần tượng. Và trong số những người ấy có Trương Thị Sáu, một cô gái ở chợ Cầu Ông Lãnh, được cho là vốn biết rõ "lòng yêu nước chân chính" của ông qua La Cloche Fêlée nên đã nhận lời cùng ông đi trọn cuộc đời, dấn thân cho đất nước.

Sự lựa chọn

Không thể làm báo, cuối năm 1924, sau khi làm lễ thành hôn với Trương Thị Sáu, ông trở sang Pháp để mở một chiến dịch đòi các "quyền tự do – dân chủ" cho Việt Nam. Đó cũng là lúc Phan Châu Trinh nhờ Nguyễn An Ninh sang Pháp đón ông về, nên tháng 1 năm 1925 ông đi Pháp. Đến Paris, ông đi diễn thuyết tại nhiều nơi. Đặc biệt trong cuộc nói chuyện tại hội quán Sociétés Savantes do Hội Liên hiệp PhápĐông Dương tổ chức ngày 22 tháng 02 năm 1925, ông đã phát biểu rằng "Cách mạng sẽ nổ ra ở Đông Dương trong vài năm sắp tới nếu thực dân Pháp không cải thiện "chế độ thối nát", đồng thời sẽ có Đảng Cộng sản giúp nhân dân Việt Nam tiến hành cách mạng".

Cũng trong thời gian này, vào tháng 4 năm 1925, ông viết quyển sách "La France en Indochine" (Nước PhápĐông Dương) tại Pháp, theo nhiều người là để "vạch trần" sự xâm lược của thực dân Pháp, phân tích những nguyên nhân đưa đến sự bất ổn tại Đông Dương. Cùng năm đó quyển "Le Procès de la colonisation Francaise" (Bản án thực dân Pháp) của Nguyễn Ái Quốc, được cho là hai bản cáo trạng "hùng hồn", và cũng được cho là đã chỉ thẳng vào cái gọi là "sứ mệnh khai hóa" của PhápĐông Dương.

Ngày 26 tháng 6 năm 1925, ông cùng Phan Châu Trinh về đến Sài Gòn. Hai người chủ trương cho tái bản La Cloche Fêlée. Lần này, báo do ông Phan Văn Trường đứng tên chủ nhiệm, vì ông này có quốc tịch Pháp.

Nguyễn An Ninh được cho là tỏ ra quyết liệt hơn theo một tư tưởng của Gandhi là '"đứng trước một tình thế phải chọn lựa giữa sự khiếp sợ và bạo lực, tôi khuyên phải dùng bạo lực hơn là thấy Ấn Độ bị xiềng xích trong bạo lực của kẻ thống trị". Ông ngày càng trở nên thiên tả. Trước kia, trên mặt báo, ông mới chỉ trích Thống đốc Nam Kỳ thì lần này, ông chỉ trích thẳng vào Toàn quyền Varenne, khi Varenne vừa nhậm chức. Đồng thời, còn cho đăng lại những bài của báo L’ Humanité (báo Nhân Đạo thuộc Đảng Cộng sản Pháp), viết những bài về nước Nga Xô Viết được ông ca tụng là "quốc gia đầu tiên sinh ra từ học thuyết Cộng sản để hạ sát con rắn bảy đầu tư bản chủ nghĩa". Ông cho đăng nguyên văn Tuyên ngôn Đảng Cộng sản để giúp đọc giả hiểu rõ về chủ nghĩa này.